HIỂU ĐÚNG “CHỮ KHỔ” TRONG ĐẠO PHẬT
13/05/2022 - 18:41
Lượt xem: 85 lượt
Ngày nay, số lượng các bạn trẻ cũng như tầng lớp tri thức đến với đạo Phật ngày càng nhiều. Họ đến đạo Phật vì nhiều mục đích khác nhau, nhưng đa phần bởi thấy được giá trị tâm linh sâu sắc và thực tiễn của minh triết Phật giáo đối với đời sống. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều người lầm tưởng rằng Đạo Phật là tôn giáo chủ trương theo học thuyết khổ đau và bi quan. Họ cho rằng đạo Phật giáo chỉ dành riêng cho những người già cả, những kẻ chán đời, bế tắc và là tôn giáo phục vụ cho tín ngưỡng cầu an, câu siêu.
Đức Phật chỉ ra Sự thật
Thật ra, Phật giáo không phải là tôn giáo của bi quan hay lạc quan. Đạo Phật nhìn về cuộc đời và thế gian một cách chân thực. Đức Phật xuất hiện giữa cuộc đời này không phải phá hủy những ước mơ, tham vọng, tình yêu hạnh phúc, tài sản…mà để dựng lại những gì đã sụp đỗ, hàn gắn lại những gì đã bị rạn nứt và phơi bày sự thật bị che kín mà chúng ta không nhận ra. Phật giáo nhìn sự vật hiện tượng một cách khách quan. Phật giáo không ru bạn ngủ vào một thiên đường ngụy tạo và không làm bạn sợ hãi và tội lỗi do tưởng tượng. Đức Phật chỉ cho ta thấy sự thật, một sự thật mà chúng ta không nhận ra hoặc né tránh: chúng ta là ai và thế giới xung quanh ta là gì. Không những vậy, Ngài chỉ cho chúng ta con đường đạt được tự do đích thực, và hạnh phúc tối thượng.
Trên thực tế, chữ khổ trong Phật giáo không chỉ đơn thuần có nghĩa là ‘khổ sở’, ‘đau đớn’, ‘sầu khổ’, ‘thống khổ’. ‘Khổ’ được dịch từ thuật ngữ Pali là ‘dukkha’, chân lý đầu tiên trong Tứ Thánh Đế. Từ dukkha trình bày quan điểm của đức Phật về cuộc đời và thế gian mang ý nghĩa sâu sắc hơn về triết học, nó chuyển tải nhiều lớp nghĩa sâu sắc, nhưng ít khi được hiểu một cách một cách đầy đủ và chính xác. Vì lâu nay chúng ta có thói quen dịch dukkha có nghĩa là khổ, cho nên nhiều người cho rằng Phật giáo chủ trương đời sống chỉ là khổ đau.
Chữ khổ là một trong nhiều nghĩa của từ dukkha, như là: “bất toàn”, “không ổn định”, “không thường hằng”, “bất như ý”, “tạm bợ”, “hư dối”, “không chắc chắn”, “không nên bám víu”, “trống không” (nghĩa là không có một thực thể tồn tại độc lập), v.v. Cho nên rất khó để mà tìm một từ ngữ nào để có thể bao hàm hết mọi khái niệm của từ dukkha trong Tứ Thánh Đế của Phật giáo.
Đức Phật không hề phủ nhận những hạnh phúc trong cuộc đời khi Ngài nói cuộc đời này có nhiều thứ khổ đau. Ngược lại, Đức Thế Tôn công nhận rất nhiều hạnh phúc về vật chất và tinh thần có trong đời sống như gia đình, bạn bè, sự thoả mãn các giác quan…
Nhưng tất cả những loại hạnh phúc đó đều nằm trong chữ dukkha, đều thuộc về sự “Khổ”.
Bởi vì chúng đều là đối tượng của sự thay đổi, biến đổi, tạm bợ, không chắc chắn, không thường hằng, không nên bám víu. Nghĩa là tất cả hạnh phúc nào thuộc về thế gian tạm bợ đều nằm trong dukkha. Như vậy, chúng ta thấy rằng dukkha không chỉ có khổ mà còn bao hàm cả lạc và hỷ trong thế gian này.
Khái niệm của “Dukkha” có thể được nhìn từ ba khía cạnh;
Chúng ta có thể nói rằng, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ và ngã hóa năm uẩn.
Nguồn gốc của khổ là ái dục
Đức Phật dạy rằng nguyên nhân của khổ là do Ái dục. Ái có nghĩa là yêu hay ưa thích, dục là ham muốn. Đức Phật ví sự nguy hiểm của ái dục như: khúc xương và con chó đói, miếng thịt trong đám diều hâu, dục như tài sản vay mượn, như người cầm đuốc đi ngược gió, như con rắn độc, dục như giấc mộng…3 Ái dục không thể tự nhiên phát sinh. Chúng ta không thể tự nhiên thích ai hay yêu mà chưa bao giờ gặp hay tiếp xúc với người đó. Do sự tiếp xúc mà tham ái phát sinh. Từng ánh mắt, nụ cười làm cho ta xao xuyến, mỗi cử chỉ, hành động làm ta nhớ nhung, nghe âm thanh dịu dàng làm ta thích, ngửi mùi hương thơm mới ưa, miệng nếm vị ngon mới thèm, thân thể xúc chạm cảm giác khoái lạc mới nhớ thương. Nói chung, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào đối tượng của tham ái. Sự khát khao về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khát ái ấy không bao giờ có điểm dừng.
Nguyên nhân sâu xa và căn bản hơn chính là vô minh. Vì vô minh cho nên không nhận ra bản chất của sự vật hiện tượng đều là vô thường, biến đổi, chuyển biến, không nhận diện được tất cả mọi thứ đều nương vào nhau mà sanh khởi, không có cái chủ thể, cái tồn tại độc lập trong chúng. Từ đó sinh ra những suy nghĩ sai lầm, chúng ta chấp vào cái tôi, cái của tôi, tự ngã của tôi như: Gia đình tôi, người yêu tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp, danh dự của tôi, v.v… Vì vô minh nên nghĩ tưởng sai lầm. Vì nghĩ tưởng sai lầm nên giận hờn vu vơ, ích kỷ, bực bội, khó chịu hay gọi là phiền não. Vì phiền não nên tạo ra những hành động bất thiện. Khi tạo nghiêp bất thiện thì kết quả là khổ đau.
Con đường hạnh phúc của Đạo Phật
Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn đạt được hạnh phúc, tự do đích thực và dập tắt phiền não, chấm dứt những nguyên nhân đưa đến khổ đau, nhưng vẫn bế tắc. Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta vô số phương pháp khác nhau để diệt khổ nhưng tựu trung có thể nói là Bát Chính Đạo (con đường có 8 nhánh), và gom thành ba nhóm chính yếu sau đây:
1. Nhóm thứ nhất thuộc về Đạo đức
- Ngôn từ đúng đắn (Chính ngữ): Nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù hay thêu dệt. Nói những lời đưa đến sự chuyển hóa khổ đau, thương yêu, từ tâm, chân thật, lợi ích.
- Hành động đúng đắn (Chính nghiệp): Không có hành vi giết hại, lừa gạt, trộm cắp, tà dâm phi pháp. Thực tập nuôi dưỡng lòng từ bi đối với người mình thương và chính ngay cả người làm mình khổ đau mệt mỏi, mở rộng vòng tay để dấn thân phụng sự giúp đời.
- Phương tiện sinh sống đúng đắn (Chính mạng): Nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
2. Nhóm thứ hai thuộc về Định (Tĩnh tâm)
- Nỗ lực đúng đắn (Chính tinh tấn): Nghĩa là ngăn chặn những điều ác chưa sanh và đã sanh, cố gắng nuôi dưỡng và phát huy những tâm thức lành mạnh, tốt đẹp vốn đã sanh và chưa sanh.
- Nhớ nghĩ đúng đắn (Chính niệm): Đừng tìm về quá khứ khổ đau hay hướng tâm tới nhưng tương lai hão huyền, nhớ các pháp bất thiện, đừng cho các đối tượng bất chính dẫn mình đi phiêu bạt. An trú vào tâm ý thiện lành ngay giây phút hiện tại.
- Tập trung tư tưởng đúng đắn (Chính định): Nghĩa là đừng để tâm thức mình bị phóng dật, rối loạn, tập trung vào thiền định để làm an tịnh tâm, từ đó tuệ giác sẽ phát triển.
3. Nhóm Thứ Ba Thuộc Về Trí Tuệ:
- Thấy và hiểu đúng đắn (Chính kiến): Nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào thiện và bất thiện. Hiều đúng về sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sanh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
- Suy nghĩ đúng đắn (Chính tư duy): Tâm hướng về sự buông bỏ, yêu thương giúp đỡ mọi người, bất bạo động, nhẫn nhục, tâm giải thoát.
Nói tóm lại, sống trong cuộc đời này, khổ hay lạc là do tâm mình. Nếu tâm mình đầy tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là điều hiển nhiên. Và ngược lại nếu chúng ta biết sống thiểu dục tri túc, không chấp ngã và dục vọng vị kỷ và để những phiền não chi phối ngự trị trong tâm thì cuộc đời sẽ an lạc, hạnh phúc. Đạo Phật là đạo giải thoát. Mục đích Đức Phật thị hiện cõi nhân gian này cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là giúp chúng sinh ‘ngộ nhập tri kiến Phật’, tức là hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau và trải nghiệm được hạnh phúc đích thực.
(Thích Châu Viên)
_________________________
1 Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, (quyển III, 57-59), HT. Thích Minh Châu Dịch, kinh Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
2 Kinh Trung Bộ (MN 131), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Đại Kinh Khổ Uẩn
3 Kinh Trung Bộ (MN 54), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Đại Potaliya.
4 Kinh Tương Ưng (Chương VII), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Tương Ưng Bà La Môn, Phẩm A-La-Hán Thứ Nhất.
Đức Phật chỉ ra Sự thật
Thật ra, Phật giáo không phải là tôn giáo của bi quan hay lạc quan. Đạo Phật nhìn về cuộc đời và thế gian một cách chân thực. Đức Phật xuất hiện giữa cuộc đời này không phải phá hủy những ước mơ, tham vọng, tình yêu hạnh phúc, tài sản…mà để dựng lại những gì đã sụp đỗ, hàn gắn lại những gì đã bị rạn nứt và phơi bày sự thật bị che kín mà chúng ta không nhận ra. Phật giáo nhìn sự vật hiện tượng một cách khách quan. Phật giáo không ru bạn ngủ vào một thiên đường ngụy tạo và không làm bạn sợ hãi và tội lỗi do tưởng tượng. Đức Phật chỉ cho ta thấy sự thật, một sự thật mà chúng ta không nhận ra hoặc né tránh: chúng ta là ai và thế giới xung quanh ta là gì. Không những vậy, Ngài chỉ cho chúng ta con đường đạt được tự do đích thực, và hạnh phúc tối thượng.
Trên thực tế, chữ khổ trong Phật giáo không chỉ đơn thuần có nghĩa là ‘khổ sở’, ‘đau đớn’, ‘sầu khổ’, ‘thống khổ’. ‘Khổ’ được dịch từ thuật ngữ Pali là ‘dukkha’, chân lý đầu tiên trong Tứ Thánh Đế. Từ dukkha trình bày quan điểm của đức Phật về cuộc đời và thế gian mang ý nghĩa sâu sắc hơn về triết học, nó chuyển tải nhiều lớp nghĩa sâu sắc, nhưng ít khi được hiểu một cách một cách đầy đủ và chính xác. Vì lâu nay chúng ta có thói quen dịch dukkha có nghĩa là khổ, cho nên nhiều người cho rằng Phật giáo chủ trương đời sống chỉ là khổ đau.
Chữ khổ là một trong nhiều nghĩa của từ dukkha, như là: “bất toàn”, “không ổn định”, “không thường hằng”, “bất như ý”, “tạm bợ”, “hư dối”, “không chắc chắn”, “không nên bám víu”, “trống không” (nghĩa là không có một thực thể tồn tại độc lập), v.v. Cho nên rất khó để mà tìm một từ ngữ nào để có thể bao hàm hết mọi khái niệm của từ dukkha trong Tứ Thánh Đế của Phật giáo.
Đức Phật không hề phủ nhận những hạnh phúc trong cuộc đời khi Ngài nói cuộc đời này có nhiều thứ khổ đau. Ngược lại, Đức Thế Tôn công nhận rất nhiều hạnh phúc về vật chất và tinh thần có trong đời sống như gia đình, bạn bè, sự thoả mãn các giác quan…
Nhưng tất cả những loại hạnh phúc đó đều nằm trong chữ dukkha, đều thuộc về sự “Khổ”.
Bởi vì chúng đều là đối tượng của sự thay đổi, biến đổi, tạm bợ, không chắc chắn, không thường hằng, không nên bám víu. Nghĩa là tất cả hạnh phúc nào thuộc về thế gian tạm bợ đều nằm trong dukkha. Như vậy, chúng ta thấy rằng dukkha không chỉ có khổ mà còn bao hàm cả lạc và hỷ trong thế gian này.
Khái niệm của “Dukkha” có thể được nhìn từ ba khía cạnh;
- Về phương diện sinh lý: khổ là một cảm giác khó chịu, bức bội, đau đớn. Cảm giác đau đầu, nhức răng, nhức mỏi toàn thân khi trái gió trở trời, bụi bay vao mắt làm ta khó chịu…, đây là sự đau đớn bức bách về thể xác. Chúng ta sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng, cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác đem lại khổ thọ đớn đau (Sinh, già nua, bệnh tật và cái chết).
- Về phương diện tâm lý: khổ đau này là do không toại ý, không vừa lòng phải ý sẽ tạo nên nỗi khổ niềm đau về tâm lý. Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ đau. Những người thương muốn gần, mà ở xa cách phương trời, còn người mình ghét thì cứ gặp hoài. Muốn tiền tài, danh vong, địa vị thì lại vụt ra khỏi ngoài tầm tay của mình. Những khổ đau đó phát sinh từ cảm tính thiếu trọn vẹn và những bất như ý trong đời sống khiến chúng ta cảm thấy không thoả mãn.
- Khổ là do chấp thủ vào thân này: Đức Phật nói rằng: “Năm Uẩn dính chấp là Khổ”3 Năm uẩn là năm yếu tố nương vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân thể vật lý, cảm giác, niệm tưởng, hành và thức. Nói cụ thể hơn, khi ta bám víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, của ta, tự ngã của ta. Ý niệm về thân thể tôi, tâm tư tôi, tình cảm tôi, nhận thức của tôi…hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng đều gắn liền với ý niệm về Ngã chấp và ngã sở (Ta và của ta).
Chúng ta có thể nói rằng, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ và ngã hóa năm uẩn.
Nguồn gốc của khổ là ái dục
Đức Phật dạy rằng nguyên nhân của khổ là do Ái dục. Ái có nghĩa là yêu hay ưa thích, dục là ham muốn. Đức Phật ví sự nguy hiểm của ái dục như: khúc xương và con chó đói, miếng thịt trong đám diều hâu, dục như tài sản vay mượn, như người cầm đuốc đi ngược gió, như con rắn độc, dục như giấc mộng…3 Ái dục không thể tự nhiên phát sinh. Chúng ta không thể tự nhiên thích ai hay yêu mà chưa bao giờ gặp hay tiếp xúc với người đó. Do sự tiếp xúc mà tham ái phát sinh. Từng ánh mắt, nụ cười làm cho ta xao xuyến, mỗi cử chỉ, hành động làm ta nhớ nhung, nghe âm thanh dịu dàng làm ta thích, ngửi mùi hương thơm mới ưa, miệng nếm vị ngon mới thèm, thân thể xúc chạm cảm giác khoái lạc mới nhớ thương. Nói chung, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào đối tượng của tham ái. Sự khát khao về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khát ái ấy không bao giờ có điểm dừng.
Nguyên nhân sâu xa và căn bản hơn chính là vô minh. Vì vô minh cho nên không nhận ra bản chất của sự vật hiện tượng đều là vô thường, biến đổi, chuyển biến, không nhận diện được tất cả mọi thứ đều nương vào nhau mà sanh khởi, không có cái chủ thể, cái tồn tại độc lập trong chúng. Từ đó sinh ra những suy nghĩ sai lầm, chúng ta chấp vào cái tôi, cái của tôi, tự ngã của tôi như: Gia đình tôi, người yêu tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp, danh dự của tôi, v.v… Vì vô minh nên nghĩ tưởng sai lầm. Vì nghĩ tưởng sai lầm nên giận hờn vu vơ, ích kỷ, bực bội, khó chịu hay gọi là phiền não. Vì phiền não nên tạo ra những hành động bất thiện. Khi tạo nghiêp bất thiện thì kết quả là khổ đau.
Con đường hạnh phúc của Đạo Phật
Tất cả chúng ta ai cũng mong muốn đạt được hạnh phúc, tự do đích thực và dập tắt phiền não, chấm dứt những nguyên nhân đưa đến khổ đau, nhưng vẫn bế tắc. Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta vô số phương pháp khác nhau để diệt khổ nhưng tựu trung có thể nói là Bát Chính Đạo (con đường có 8 nhánh), và gom thành ba nhóm chính yếu sau đây:
1. Nhóm thứ nhất thuộc về Đạo đức
- Ngôn từ đúng đắn (Chính ngữ): Nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù hay thêu dệt. Nói những lời đưa đến sự chuyển hóa khổ đau, thương yêu, từ tâm, chân thật, lợi ích.
- Hành động đúng đắn (Chính nghiệp): Không có hành vi giết hại, lừa gạt, trộm cắp, tà dâm phi pháp. Thực tập nuôi dưỡng lòng từ bi đối với người mình thương và chính ngay cả người làm mình khổ đau mệt mỏi, mở rộng vòng tay để dấn thân phụng sự giúp đời.
- Phương tiện sinh sống đúng đắn (Chính mạng): Nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
2. Nhóm thứ hai thuộc về Định (Tĩnh tâm)
- Nỗ lực đúng đắn (Chính tinh tấn): Nghĩa là ngăn chặn những điều ác chưa sanh và đã sanh, cố gắng nuôi dưỡng và phát huy những tâm thức lành mạnh, tốt đẹp vốn đã sanh và chưa sanh.
- Nhớ nghĩ đúng đắn (Chính niệm): Đừng tìm về quá khứ khổ đau hay hướng tâm tới nhưng tương lai hão huyền, nhớ các pháp bất thiện, đừng cho các đối tượng bất chính dẫn mình đi phiêu bạt. An trú vào tâm ý thiện lành ngay giây phút hiện tại.
- Tập trung tư tưởng đúng đắn (Chính định): Nghĩa là đừng để tâm thức mình bị phóng dật, rối loạn, tập trung vào thiền định để làm an tịnh tâm, từ đó tuệ giác sẽ phát triển.
3. Nhóm Thứ Ba Thuộc Về Trí Tuệ:
- Thấy và hiểu đúng đắn (Chính kiến): Nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào thiện và bất thiện. Hiều đúng về sự vật là vô thường, vô ngã, duyên sanh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
- Suy nghĩ đúng đắn (Chính tư duy): Tâm hướng về sự buông bỏ, yêu thương giúp đỡ mọi người, bất bạo động, nhẫn nhục, tâm giải thoát.
Nói tóm lại, sống trong cuộc đời này, khổ hay lạc là do tâm mình. Nếu tâm mình đầy tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là điều hiển nhiên. Và ngược lại nếu chúng ta biết sống thiểu dục tri túc, không chấp ngã và dục vọng vị kỷ và để những phiền não chi phối ngự trị trong tâm thì cuộc đời sẽ an lạc, hạnh phúc. Đạo Phật là đạo giải thoát. Mục đích Đức Phật thị hiện cõi nhân gian này cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là giúp chúng sinh ‘ngộ nhập tri kiến Phật’, tức là hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau và trải nghiệm được hạnh phúc đích thực.
(Thích Châu Viên)
_________________________
1 Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, (quyển III, 57-59), HT. Thích Minh Châu Dịch, kinh Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
2 Kinh Trung Bộ (MN 131), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Đại Kinh Khổ Uẩn
3 Kinh Trung Bộ (MN 54), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Đại Potaliya.
4 Kinh Tương Ưng (Chương VII), HT. Thích Minh Châu Dịch, Kinh Tương Ưng Bà La Môn, Phẩm A-La-Hán Thứ Nhất.
- 85 lượt